Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

Chương 1. Cảng Frieden và lũ ranh con chết tiệt ( phần 2.1 )

Bến cảng bỗng nổi gió to hơn thường ngày, làm cho đàn hải âu thường bay lượn trên bầu trời hay nghiêng mình xuống nước để bắt những con cá thân to béo bở này lại gặp khó khăn trong việc di chuyển. Đối với những “mũi tên xét gió”, đó chẳng khác gì một trò đùa chết tiệt đến từ phía Thượng đế, kẻ đang cố phá bữa sáng ngon lành của chúng. Bầu trời hôm nay cũng rất cao, cao như tiết hét thất thanh của cô gái ở quầy bánh mì đằng kia ấy.

- A ! Lũ nhỏ này !

 Một đám trẻ giật lấy ngay túi bánh mì của cô ngay khi cô vừa mới nhận lấy nó từ tay anh thợ làm bánh kia. Chúng nhanh chóng luồn lách qua dòng người đông đúc đi chợ rồi biến mất trong những con hẻm tối tăm, nồng mùi rêu và vị mặn của biển. Còn cô ta, người mua bánh thì sao? Chắc chắn là cô ta không phải là kiểu người tặc lưỡi một cái rồi bỏ qua cho lũ nhỏ rồi. Ả cứ đứng đó, chửi thề vài câu bằng tiếng Đức. Anh chàng chủ quầy chỉ khẽ cười một cái rồi đưa cho ả mấy cái bánh mì mà ả ta vừa bị cướp. Ả ta nhìn anh, cười rạng rỡ rồi nói vài câu cảm ơn. Song, ả ta đi về nhưng vẫn không quên châm vào một câu.

- Anh biết đấy, bọm ranh đó lượn lờ chỗ anh cũng cả tuần nay rồi. Anh không định làm gì sao?

 Nghe ả nói thế, anh cũng chỉ cười trừ rồi lại bắt tay vào công việc của mình. Mà quả thật ả nói cũng chẳng sai. Kể từ lần đầu tiên chúng được nếm thử vị trứng và sữa nồng đượm trong cái bánh mì nhỉ nhắn của quầy anh, chúng đã “ghé thăm” vào mỗi buổi sáng, “xin” một phần ăn của một người nào đó mà chúng cho là có điều kiện, rồi chạy tọt về “mái nhà” của chúng. Anh thì lại không để bụng, dù cho anh phải mất thêm vài cái bánh để đền bù cho buổi sáng ngon lành của khách hàng mình. Người ta  nói anh quá tốt, quá dễ tính với mọi người, lại càng quá dễ dãi với bọn trẻ. Bởi anh là một con người quá đỗi lương từ nên anh lúc nào cũng chỉ cười hề hề rồi nói : “Vài cái bánh có đáng bao nhiêu trong vài đồng trứng với sữa đâu mà.” Bản tính tốt bụng còn đi theo với khuôn mặt điển trai cùng với cơ thể cân đối, có biết bao là cô nàng đã rơi vào lưới tình của anh. Song, anh cũng chẳng phải là một tên đào hoa, lãng tử gì cả. Dù rằng anh có một mái tóc màu nâu hơi rối với đôi mắt đen sâu đến mức khiến người ta không thể rời mắt ra được.

 Anh có thói quen đơn giản đến kì lạ so với nhưng con người ở cái thành phố cảng Friedon này. Cứ mỗi lần làm việc xong, anh thường ra cảng ngồi châm thuốc rồi rít lên từng đợt khói phả vào trong không khí lạnh dù đang trong hè ở cái xứ Anh Quốc này. Cái lạ là do ở cảng thì chắc chắn là sẽ có gió. Nên cứ mỗi lần anh hút thì tha hồ mà ho sặc sụa. Người ta bảo anh vào trong nhà mà hút thì anh lại bảo sợ bánh mì bị ám mùi thuốc. Vả lại, anh thích ngồi đây, ngắm những con tàu hùng vĩ khởi hành ra khơi dưới ánh nắng mặt trời lúc hoàng hôn hơn là ngồi trong căn nhà xập xệ coi tivi.

- Những con tàu dưới ánh hoàng hôn, cháu đang nghĩ về việc gì sao, Luis.

 Một ông bác mập mạp với một bộ râu quai nón màu bạch kim, trên tay cầm hai ly cà phê đi lại phía anh. Nhận lấy một ly, anh trả lời.

- Không có gì đâu bác Johnson. Chỉ là cháu bỗng nghĩ đến vài thứ ở ngoài kia thôi.

 Bác Johnson nghe rồi cũng chẳng nói gì nữa. Hai người cứ đứng đó, im lặng ngắm những đợt sóng đập vào thành cảng, lắng nghe tiếng mấy chú hải âu đang lượn lờ trên bầu trời màu da cam để tìm chỗ đế trú qua đêm nay. Rồi khi đoàn thuyền đã đi khuất, anh mới cất tiếng kể lể.

- Bác biết gì không bác Johnson. Dạo này có mấy đứa nhỏ hay đến quầy của cháu lắm.

 Bác Johnson quay sang nhìn anh, nhấp một ngụm lớn cà phê rồi hỏi.

- Thế chúng ghé đến quầy cháu để làm gì.

- Để cướp bánh từ những khách hàng của cháu. – anh đáp ngay tấp lự. – Vào mỗi buổi sáng, tính từ ngày này tuần trước.

 Bác Johnson vừa nghe xong thì bật cười thành tiếng, suýt thì làm rớt cả cốc cà phê đang uống dở.

- Thế cháu đã làm gì?

- Chẳng làm gì cả. Ngoại trừ việc cháu phải mất thêm vài cái bánh để đền cho mấy vị khách. – anh thở dài. – Nhưng nếu nói về việc cháu sẽ làm gì, thì có lẽ, cháu sẽ đóng cửa sớm vào ngày mai.

 Hiểu ý anh nên bác Johnson cũng chẳng nói thêm gì nữa, chỉ uống hết chỗ cà phê còn lại rồi quay bước đi về nhà. Vẫy vẫy tay chào bác xong, anh tiếp tục hướng mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó . . .

.

.

.

 Vào ngày mai, anh vẫn mở quầy bán bánh như bình thường. Mọi thứ vẫn thật bình yên cho đến khi một đứa nhóc chạy đến giật lấy cái bọc đựng bánh mì nóng hổi của ông chú đeo kính, khiến cho gã giật mình mà té bẹp dưới đất. Anh ngay lập tức quay bảng “Mở hàng” thành “Đóng hàng”, rồi chạy ra khỏi quầy, bám theo đứa bé.

- Bác trông quầy giúp cháu nhé bác Johnson.

- Được thôi.

 Gã đang ngồi bẹp dưới đất chính là bác Johnson. Bác ta đứng dậy, phủi lớp bụi dính đầy trên đáy quần mình rồi gượng cười với mọi người xung quanh. Trong khi đó, Luis thì đang cố gắng bám theo cậu bé với khoảng cách không quá xa để nhóc ta khuất khỏi tầm mắt, nhưng cũng chẳng quá gần để rồi nó biết mà chạy nhanh hơn. Bởi lẽ, anh không muốn bắt nó đền mấy cái bánh mì mà anh phải tốn công làm ra. Anh còn một mục đích khác, không mấy là cao cả, nhưng chắc chắn cũng chẳng phải hèn hạ hay mưu mô gì.

 Rồi bỗng chốc, tên nhóc đó quẹo vào một con hẻm bé tí, làm cho anh khựng lại, chẳng tài nào qua được. Mò mò một hồi, anh quyết định trèo lên mấy cái thùng rác rồi nhảy tới, bám vào thánh cái bức tường nhà bên cạnh con hẻm. Anh cố gắng hết sức giữ bình sinh rồi bò bò trên bức tường vừa hẹp vừa thấp.

 Thằng nhỏ đã đi khỏi tầm mắt anh, nhưng đoán rằng, đi hết cái “đường hầm” này thì lòng vòng tí cũng kiếm ra thôi.

 Năm phút lay hoay trong đau đớn, anh cuối cùng cũng đã qua được đầu bên kia con hẻm với vài vết rách trên áo và quần.

- Mệt quá . . . Mấy giờ rồi nhỉ? Biết vậy nãy đem theo đồng hồ là được rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét